bình luận về nguyễn trãi

Chưa có quyết định tịch thu. Trước đây, trả lời báo chí xung quanh việc nuôi hổ ở Bình Dương, lãnh đạo Cục Kiểm lâm từng khẳng định: Loại hổ được nuôi ở Bình Dương thuộc loài hổ Đông Dương đặc biệt quý hiếm (nhóm 1B), do vậy cần bảo tồn nghiêm ngặt. Ở Chưa kể đến những yếu tố về thời đại, về hoàn cảnh lịch sử chống quân Minh, về những bức thư đầy tính luận chiến trong Quân trung từ mệnh tập và ngay cả sự bạo ngược của giặc Minh, Nguyễn Trãi đã đem đến một bài cáo rất đặc biệt trong cách lập luận mà Nguyễn Trãi sinh (1380 – 1442) là một bậc anh hùng, một nhà văn hóa lớn, ông đã để lại cho lớp lớp thế hệ sau một sự nghiệp văn học vĩ đại. Ông sinh ra trong một gia đình cả bên nội và bên ngoại đều có hai truyền thống lớn là yêu nước và văn hóa, văn học. Ông đỗ Thái học sinh và cùng cha làm quan Vay Tiền Nhanh Iphone. Lượt xem STUDY ON IDEOLOGICAL LITERARY THEORY OF NGUYEN TRAI Tác giả bài viết NGUYỄN CÔNG LÝTrường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn VNU-HCM TÓM TẮT Nguyễn Trãi không chỉ là nhà quân sự – chính trị – ngoại giao thiên tài, nhà văn nhà thơ lỗi lạc mà còn là nhà tư tưởng lý luận văn nghệ với những quan niệm tiến bộ và đúng hướng. Khác với một vài thi hào thời trung đại, họ thường thể hiện tư tưởng và quan niệm về văn học nghệ thuật qua các bài Tự, Bạt, hay những đoạn thẩm bình thì Ức Trai tiên sinh lại thể hiện qua thơ. Bài viết này, thông qua những sáng tác trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập để khái quát và chỉ ra có hệ thống những quan niệm, tư tưởng lý luận văn học nghệ thuật của Nguyễn Trãi. Từ khoá tư tưởng, lý luận, văn nghệ, Nho giáo, Nguyễn Trãi. ABSTRACT Nguyen Trai is not only military – political – diplomatic genius, poet, eminent poet, but also the ideological and literary theorist with the notion of progress and on track. Unlike some medieval poets, they often expressed thoughts and conceptions of literature and art through Preface Tu, Afterword Bat, or the average piece evaluating, Uc Trai expressed through poetry. This article, through the works of Uc Trai on Uc Trai poetry collection and Quoc am poetry collection to generalize and indicate systematic notions, ideological literary theories, and Confucianism in Vietnam of Nguyen Trai. xx x 1. Giới thiệu Nguyễn Trãi 1380-1442 không chỉ là nhà văn nhà thơ lỗi lạc cắm mốc khai sáng nền văn học cổ điển Việt Nam, nhà văn hoá lớn, nhà quân sự và nhà ngoại giao kiệt xuất với những chiến lược chiến thuật nhất quán, mà còn là một nhà lý luận văn nghệ tiên phong. Cho dù ở lĩnh vực lý luận văn nghệ, Ức Trai không nêu tuyên ngôn hay phát biểu trực tiếp, nhưng qua những trước tác hiện còn, người đọc có thể chắt lọc được những tư tưởng lý luận văn nghệ cùng một số quan niệm mang tinh thần Nho giáo Việt Nam của tiên sinh. Sau vụ án Lệ Chi viên oan nghiệt mùa thu 1442, Nguyễn Trãi và gia tộc bị triều đình kết án tru di, nhưng sau đó không lâu, các triều đại phong kiến đều lần lượt minh oan cho ông. Chẳng hạn, vua Lê Nhân Tông 1442-1459, có lần đến Bí thư các và đọc được bản thảo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, nhà vua đã phát biểu rằng“Nguyễn Trãi là người trung thành, lấy võ giúp đức Thái Tổ dẹp yên loạn lạc, lấy văn giúp đức Thái Tông xây nền trị bình, văn chương đức nghiệp của ông, các danh tướng bản triều không ai sánh kịp. Không may vì kẻ phụ nhân gây biến để người lương thiện mắc oan, thật rất đáng thương! Nói xong, nhà vua đem quyển sách để ở đầu giường làm gốc cho việc chính trị”. Lời văn trên là do Lý Tử Tấn – bạn đồng khoa, đồng liêu với Nguyễn Trãi đã chép lại lời dụ của vua Lê Nhân Tông khi ông được lệnh biên tập lại Dư địa chí 1. Tiếp theo, vua Lê Thánh Tông 1460-1497 năm 1464 ban chiếu minh oan và cho tìm con cháu Nguyễn Trãi để bổ dụng chức quan, truy tặng tước Tán Trù bá và cấp 100 mẫu ruộng để tế tự. Năm Đinh Hợi 1467, nhà vua sai Trần Khắc Kiệm sưu tầm thơ văn của Nguyễn Trãi. Năm 1494, trong bài Minh lương tập Quỳnh uyển cửu ca, nhà vua có lời thơ ca ngợi“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” Tấm lòng Ức Trai sáng như văn chương của ông. Năm Nhâm Thân 1512, vua Lê Tương Dực 1510-1516 truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu. Năm Nhâm Ngọ 1822, vua Minh Mạng 1820-1841 triều Nguyễn truy phong cho ông tước Khê Quận công. Dịp này, nhà vua sai Dương Bá Cung là người cùng làng sưu tầm di văn của Ức Trai. Dương Bá Cung đã bỏ ra hơn 10 năm ròng mới hoàn thành bộ Ức Trai di tập gồm 07 quyển. Dương Bá Cung cùng Nguyễn Thâm người cháu trực hệ soạn lại gia phả Nguyễn Nhị Khê, viết lời Tựa. Năm Mậu Thìn 1868, triều Tự Đức, bản Ức Trai di tập được khắc in bởi Phúc Khê đường tàng bản. Đây là di sản thơ văn Nguyễn Trãi hiện còn đến hôm nay. Riêng tác phẩm Quân trung từ mệnh sau này đã được Trần Văn Giáp và Đào Duy Anh tìm thêm một số bức thư và văn kiện, bổ sung rồi sắp xếp lại văn bản do Dương Bá Cung đã sưu tầm. Năm Nhâm Dần 1962, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức kỷ niệm lần thứ 520 năm ngày mất của Nguyễn Trãi. Năm Canh Thân 1980, Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Uỷ ban Văn hoá – Giáo dục – Khoa học UNESCO của Liên Hiệp Quốc tổ chức kỷ niệm 600 năm ngày sinh, tôn vinh Nguyễn Trãi là Danh nhân văn hoá thế giới. Về trước tác, qua nhiều lần sưu tầm qua các thời đại, được biết Nguyễn Trãi đã để lại những tác phẩm sau Quân trung từ mệnh tập 1423-1427, Băng Hồ di sự lục 1428, Bình Ngô đại cáo đầu 1428, Lam Sơn thực lục 1431, hiệu đính, Chí Linh sơn phú, Vĩnh Lăng thần đạo bi ký 1433, Dư địa chí 1435, Ức Trai thi tập2 , Quốc âm thi tập, Văn loại gồm các bài Chiếu, Cáo, Biểu, như Bình Ngô đại cáo 1428, Tạ ân biểu 1440, Thạch khánh đồ 1437, hiện thất lạc, Luật thư 1441-1442, hiện thất lạc, Giao tự đại lễ hiện thất lạc. 2. Một số quan niệm – tư tưởng lý luận văn nghệ của Nguyễn Trãi Trước khi tìm hiểu tinh thần Nho giáo Việt Nam trong tư tưởng lý luận văn nghệ của tiên sinh, thiết nghĩ cũng cần nên tìm hiểu cội nguồn những cơ sở hình thành quan niệm và tư tưởng lý luận văn chương của Nguyễn Trãi. Qua gia phả và qua cuộc đời, có thể thấy Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng từ dòng họ với truyền thống cương trực, khảng khái, khí tiết cứng cỏi, đấu tranh chống lại cường quyền, bạo lực, chống cái xấu, cái ác làm hại nước hại dân. Bên cạnh, nhà thơ còn chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng, văn hoá và học thuật cùng nhân cách của ông ngoại, của cha mẹ. Nguyễn Trãi đã từng sống đời sống thanh bần, giản dị ở Côn Sơn, ở Nhị Khê từ thuở thiếu thời, cũng như mười năm tìm đường cứu nước và mấy năm cáo quan về Côn Sơn, sống gần gũi với nhân dân nên tiên sinh đã thấu hiểu dân tình, đồng cảm những cảnh ngộ cùng khổ của nhân dân. Dù bản thân là nhà Nho, nhưng Nguyễn Trãi đã tiếp thu nhiều nguồn văn hoá tư tưởng trong kinh sách Tam giáo Nho, Phật, Đạo; từ truyền thống văn hoá tư tưởng nhân dân; từ tinh hoa văn hoá thời đại Lý – Trần; từ thực tế cuộc sống bản thân, từ hiện thực thời đại lịch sử rồi dung hoà, nâng cao thành hệ tư tưởng của thời đại phục hưng dân tộc sau chiến thắng giặc Minh xâm lược. Tư tưởng của Nguyễn Trãi cũng chính là tư tưởng chung, tiêu biểu cho tư tưởng Đại Việt ở thế kỷ XV. Vì thế, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, tuy khái niệm này là của Nho gia nhưng quan niệm của ông có khác với Khổng Mạnh, và khác xa với Tống Nho, bởi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mang nội dung thân dân, vì dân. Yêu nước chính là yêu dân, khát vọng xây dựng đất nước hoà bình thịnh trị, nhân dân ấm no hạnh phúc với chủ trương “yên dân, trừ bạo”. * Bàn về quan niệm văn chương Nguyễn Trãi, ở nước ta, người đầu tiên đặt vấn đề này để tìm hiểu tương đối có hệ thống là GS. Đinh Gia Khánh với tiểu luận “Quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi” in trong công trình “Kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi” NXB Khoa học Xã hội, 1982, tr. 204-214. Trong bài viết này, mặc dù tác giả không ghi thành đề mục cụ thể, song có thể nêu lên 5 điểm như sau 1. Mối quan hệ giữa nhà văn và người chiến sĩ; 2. Dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu vì nước vì dân; 3. Mối quan hệ giữa gốc và văn; 4. Nhà thơ tìm đề tài và cảm hứng từ cuộc sống; 5. Tác dụng của văn nghệ. Trước đó, trong giáo trình Văn học Việt Nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII, tập 2 1979, tại chương viết về tác gia Nguyễn Trãi, giáo sư cũng đã có trình bày sơ lược về quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi, và dĩ nhiên là chưa có hệ thống và đầy đủ như trong bài viết vừa nêu. Tiếp theo, trong hai chuyên khảo Về quan niệm văn học cổ Việt Nam 1982 và Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam 1997, GS. Phương Lựu ít nhiều có nhắc đến quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi. Cũng vậy, trong luận án Tiến sĩ của Lê Giang Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam 2001 và của Nguyễn Thanh Tùng Sự phát triển tư tưởng thi học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX 2010 đều có nhắc đến quan niệm văn học của Nguyễn Trãi trong quan niệm chung về lý luận văn nghệ thời Hậu Lê sơ. Gần đây, trong công trình Lịch sử lý luận phê bình văn học Việt Nam 2013 của Phòng Lý luận văn học – Viện Văn học Việt Nam do Trịnh Bá Đĩnh chủ biên, có một mục viết về quan điểm lý luận văn nghệ của Nguyễn Trãi, mục này do Đinh Thị Minh Hằng thực hiện, nhưng xem ra ý tưởng và luận điểm lại không có gì mới nếu so với tiểu luận của GS. Đinh Gia Khánh viết từ năm 1980. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã có cùng đọc sâu văn chương Nguyễn Trãi, nhất là thơ, ở đây xin được trình bày có hệ thống về tư tưởng lý luận văn nghệ của Ức Trai tiên sinh. Qua văn chương, Nguyễn Trãi đã nêu lên mối liên hệ mật thiết giữa văn nghệ và cuộc sống, sự gắn bó giữa nhà văn và người chiến sĩ Thông thường các vị Tiên Nho hay phát biểu quan niệm của mình về văn chương qua các bài Tự, bài Bạt. Riêng Ức Trai tiên sinh đã phát biểu vấn đề này qua nhiều bài thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Ở đó, tiên sinh đã nêu lên mối liên hệ mật thiết giữa văn nghệ và cuộc sống, sự gắn bó giữa nhà văn và người chiến sĩ. Trong bài thơ Nôm “Tự thán số 2”, Nguyễn Trãi viết Non hoang tranh vẽ, chập hai ngàn, Nước mấy dòng thanh, ngọc mấy hoàn hòn. Niềm cũ sinh linh đeo ắt nặng, Cật chưng hồ hải đặt chưa an. Những vì thánh chúa âu đời trị, Há kể thân nhàn tiếc tuổi tàn. Thừa chỉ ai rằng thì thời khó ngặt, Túi thơ chứa chất mọi giang san. Nhà thơ đã tự hào vì túi thơ chứa chất cảnh đẹp của núi sông Tổ quốc, hồn thơ trĩu nặng tình đời. Từ đó, có thể nói ở Nguyễn Trãi, con người hành động nhà yêu nước thương dân và con người sáng tác người nghệ sĩ chân chính luôn gắn bó với nhau, hỗ trợ cho nhau. Ức Trai là mẫu người điển hình về sự gắn bó giữa nhà văn và người chiến sĩ đấu tranh vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì con người. Đây là minh chứng hùng hồn về mối liên hệ mật thiết giữa văn nghệ và cuộc sống. Nhà thơ suốt đời chưa được ngả lưng an cật, luôn đeo nặng nỗi ưu tư vì nhân dân; suốt đời ôm ấp khát vọng lớn, lý tưởng cao cả là làm sao cho đất nước thái bình thịnh trị, với nỗi niềm “tiên ưu hậu lạc”. Qua văn chương, Nguyễn Trãi còn nêu lên trách nhiệm của người cầm bút và thể hiện niềm tự hào lớn về trách nhiệm này Bài thơ Bảo kính cảnh giới số 5, thi hào viết Văn chương chép lấy đòi câu thánh, Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung. Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược, Có nhân, có trí, có anh hùng. Lời thơ có tính chất như một tuyên ngôn văn học, Nguyễn Trãi đã gắn văn chương với sự nghiệp, gắn nhiệm vụ làm văn với bổn phận làm người. Văn chương gắn liền với hành động “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”; văn chương gắn liền với phẩm chất “Có nhân, có trí, có anh hùng”. Ở nước ta, muốn làm được như thế, muốn bảo vệ cuộc sống và khẳng định giá trị con người thì trước hết phải bảo vệ Tổ quốc, khẳng định dân tộc. Thơ văn Nguyễn Trãi đã thể nghiệm sâu sắc nhất điều này. Nguyễn Trãi quan niệm văn chương phải là vũ khí chiến đấu chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, vì hạnh phúc của dân Bài thơ Nôm Bảo kính cảnh giới số 56, nhà thơ viết Đao bút phải dùng tài đã vẹn, Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên. Vệ Nam mãi mãi ra tay thước, Điện Bắc đà đà yên phận tiên. Ngày xưa, khi chưa chế tạo ra giấy và bút lông, người xưa dùng dao khắc chữ vào tre, trúc, gỗ. Thời Nguyễn Trãi đã có giấy bút nhưng ông vẫn dùng “đao bút” dùng đao làm bút. Cũng có thể hiểu ngòi bút là một thứ vũ khí chiến đấu đắc lực và có hiệu quả nhất. Thực tế là trong những năm tháng chiến đấu chống giặc Minh xâm lược, Nguyễn Trãi đã dùng đao bút để viết các từ mệnh, các lệnh chỉ, mà người đời sau, khi sưu tập di sản thơ văn này đã gộp lại dưới nhan đề là Quân trung từ mệnh tập. Ở tập văn chương luận chiến này, Nguyễn Trãi đã dùng sức mạnh của văn chương chính nghĩa mà tập hợp lực lượng của ta để tấn công quân địch. Nhà thơ không ngừng “ra tay thước” tức trổ hết tài năng để chiến đấu, nhằm mục đích “vệ Nam” tức bảo vệ sông núi nước Nam. Muốn làm được điều ấy thì phải “điện Bắc” tức dẹp yên giặc Bắc, lúc này mới có thể xây dựng được cuộc sống ấm no, nhân dân an cư lạc nghiệp, sống đời thái bình, chẳng khác nào cuộc sống cảnh tiên an nhàn “đà đà yên phận tiên”. Rõ ràng, theo Nguyễn Trãi, ngòi bút phải là một thứ vũ khí chiến đấu vì Tổ quốc, vì dân tộc, vì nhân dân. Quan niệm này, trước Nguyễn Trãi người đọc có thể bắt gặp ở Lý Thường Kiệt khi vị tướng tài ba này đã có ý thức dùng bài thơ của Thần để khích lệ lòng yêu nước, tinh thần quyết chiến đấu của quân đội Đại Việt trong cuộc chiến tranh vệ quốc trong chiến dịch năm 1075-1077. Hay như việc Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn với bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn cũng vậy. Ngay cả trong bài Tựa của một quyển sách mang nội dung tư tưởng triết học Phật – Thiền Khoá hư lục mà Trần Thái Tông đã viết “Văn bút tảo thiên quân chi trận; Vũ lược mưu bách kế chi công” văn bút như trận chiến quét sạch ngàn quân; Mưu lược như trăm kế đánh vào thành giặc để nêu lên một quan niệm văn chương cực kỳ hiện đại. Đành rằng chuyện làm thơ đuổi giặc thoái lỗ thi ở Trung Quốc cũng đã có từ trước như thơ của Lý Bạch chẳng hạn, nhưng ở Việt Nam ta đã tiếp thu và có biến đổi cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền của dân tộc. Qua văn chương, Nguyễn Trãi thể hiện tư tưởng thân dân, yêu thương nhân dân, có ý thức chăm lo quyền lợi và hạnh phúc của dân Thơ văn Nguyễn Trãi còn thể hiện tư tưởng thân dân, nỗi niềm yêu thương nhân dân, có ý thức chăm lo quyền lợi và hạnh phúc của dân. Dân theo quan niệm của thi hào là “manh lệ”, “xích tử”, “lê dân”, “thương sinh”, “sinh linh”. Đây là cái nhìn mới mẻ, thể hiện một quan niệm rất tiến bộ về nhân dân mà trước đó chưa một tác giả nào đề cập đến và nói nhiều như Nguyễn Trãi đã nói trong thơ văn của ông 3, ví dụ như trong Bình Ngô đại cáo – Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. – Hân thương sinh ư ngược diệm; Hãm xích tử ư hoạ khanh. – Manh lệ chi đồ tứ tập Tư tưởng thân dân, nỗi niềm yêu thương nhân dân, có ý thức chăm lo quyền lợi và hạnh phúc của dân trên cơ sở của tinh thần dân chủ và rộng mở còn thể hiện rõ trong quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi. Văn nghệ phải gắn bó với hiện thực cuộc sống của quảng đại quần chúng nhân dân. Trong văn chương Việt Nam, Nguyễn Trãi là người đầu tiên nêu lên mối quan hệ giữa gốc và văn, giữa nội dung và hình thức Có lần vua Lê Thái Tông giao cho Nguyễn Trãi soạn lại lễ nhạc của triều đình, nhân lúc ông dâng biểu đề nghị vẽ lại chiếc khánh đá – một biểu tượng văn hoá – trên cơ sở đó xây dựng một nền âm nhạc chân chính mang đậm bản sắc dân tộc, qua lời tâu “Kể ra, thời loạn dùng võ, thời bình dùng văn. Ngày nay, đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc không thể đứng vững được, không có văn không thể lưu hành được. Hoà bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu làm nhạc, không dám không hết lòng hết sức, nhưng vì học thuật nông cạn, sợ rằng trong khoảng thanh luật khó được hài hoà. Xin bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân, khiến cho các nơi làng mạc, thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán giận than sầu, đó là không mất cái cỗi gốc của nhạc vậy”4. Sau đó, như Đại Việt sử ký toàn thư có chép “Nhà vua khen và chấp nhận, sai thợ đá ở huyện Giáp Sơn lấy đá tốt ở núi Kính Chủ để làm”5. Bàn về âm nhạc mà Nguyễn Trãi nhắc vua thi hành chính sách khoan dân, thân dân, để qua đó thể hiện rõ quan điểm văn nghệ của ông. Đó là mối quan hệ giữa “gốc” và “ văn”. Theo Nguyễn Trãi, “gốc” là nội dung tư tưởng cơ bản của văn nghệ, mà cái “gốc” này phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống sinh động và phong phú; “văn” là hình thức biểu hiện của văn nghệ. “Gốc” và “Văn”, nội dung và hình thức có mối quan hệ hữu cơ, ở đó nội dung quyết định hình thức. Xây dựng âm nhạc không phải chủ yếu và trước hết quan tâm đến “văn”, tức chú trọng hình thức, kỹ xảo, âm thanh mà phải quan tâm hàng đầu và chủ yếu là cái “gốc”, tức nội dung. Nội dung ấy là “hoà bình” chỉ sự yên bình, hài hoà của tâm hồn, của cuộc sống. Như vậy, từ mối quan hệ giữa „gốc‟ và „văn‟, giữa “hòa bình” và “thanh âm”, Ức Trai đã nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa nội dung và hình thức trong một tác phẩm văn nghệ, mà mối liên hệ này gắn bó chặt chẽ với hiện thực đời sống nhân dân. Vì thế, lời tâu ấy càng thể hiện sâu đậm tấm lòng ưu ái rừng rực “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” với dân với nước của Ức Trai tiên sinh. Nguyễn Trãi chủ trương nhà văn cần tìm đề tài và cảm hứng từ hiện thực cuộc sống, tức nêu lên quan niệm văn học phải phản ánh hiện thực đời sống Bài Tự thán số 3 Qua đòi cảnh chép câu đòi cảnh; Nhàn một ngày nên quyển một ngày. Điều đó có nghĩa là bất kỳ cảnh vật, đời sống nào cũng đều là đối tượng miêu tả, phản ánh của văn nghệ sĩ. Nguyễn Trãi còn yêu cầu nhà văn cần trổ hết tài năng để xây dựng tác phẩm; cần năng động, có khí phách hào hùng, tâm hồn dạt dào cảm hứng, tức cần khả năng tinh nhạy khi nhận thức và phản ánh hiện thực cuộc sống qua bài Tự thán số 19 Tài tuy chăng ngộ, trí chẳng cao, Quyển đến trong tay chí mới hào. Miệng khiến tửu binh phá luỹ khúc, Mình làm thi tướng đứng Đàn Tao. Cầm khua hết ngựa, cờ khua tượng, Chim bắt trong rừng, cá bắt ao. Còn có anh hùng bao nả nữa, Đòi thì vậy, dễ hơn nào. Bài thơ có vẻ trào lộng, nhưng đã thể hiện quan niệm của Nguyễn Trãi về văn chương. Ở đây, Ức Trai ví người làm thơ chẳng khác nào người làm tướng, dù có ít tài trí nhưng nếu quyết chí làm được thì như bậc anh hào. Người làm thơ chính là vị thi tướng mà chiến địa là Tao đàn, khi uống rượu vào thì sẽ phá tan cái luỹ khúc của làng say. Người làm thơ cần trổ hết tài sức, cảm xúc để thể hiện như đánh đàn thì phải trố hết ngón, chơi cờ thì phải đi hết nước. Đây là công việc quen thuộc, cũng như người đi săn bắt chim trong rừng, người câu cá bắt cá dưới ao, tức ý nói nhà thơ phải tóm thâu tất cả thế giới hiện thực vào trong túi thơ của mình. Nếu nhà thơ làm được như thế thì quý biết bao, còn có gì anh hùng hơn. Như vậy, theo Ức Trai, nhà văn chân chính cần có tính năng động, có cảm hứng dồi dào, tâm hồn giàu sức sống, khí phách hào hùng. Người đọc có thể tìm thấy ý tưởng vừa nêu trong bài thơ chữ Hán “Hý đề” Đề chơi nước, núi, hoa, chim dưới con mắt người đời thì nhiều khi chỉ là bình thường, nhưng dưới cái nhìn của thi nhân thì đó là nguồn thi liệu vô cùng phong phú để thi nhân cảm hứng và tái hiện đề thơ, qua hai câu kết Nhãn để nhất thì thi liệu phú, Ngâm ông thuỳ dữ thế nhân da? Trước mắt, trong một lúc, thi liệu đến dồi dào như thế, Thì trong đời ai dễ sánh được với thi nhân?. Bài Trần tình số 6, ông viết Hàng chim ngủ khi thuyền đỗ, Vầng nguyệt lên thuở nước cường. Mua được thú màu trong thuở ấy, Thế gian hay một khách văn chương. Thế gian này cần có những khách văn chương, tức nhà văn nhà thơ để có thể mua được, vẽ lại được những “thú màu”, những cảnh đẹp cho mọi người, cho độc giả. Bài Mạn thuật số 13 có câu Khách đến, vườn còn hoa lác, Thơ nên, cửa thấy nguyệt vào. Thơ vừa làm xong, trăng đã bước vào nhà. Thơ gọi trăng vào nhà hay trăng đã gợi thi hứng cho thi nhân? Ngoại cảnh đã kích thích lôi cuốn nhà thơ. Điều này trong vài bài thơ khác, Nguyễn Trãi cũng đã thể hiện ý vừa nêu, như hai câu đầu bài Vọng Doanh Vọng Doanh đầu mộ hệ ngâm thuyền, Thi cảnh liêu nhân, vãn hứng thiên. Chiều hôm đến Vọng Doanh buộc chiếc thuyền thơ, Cảnh nên thơ ghẹo người, hứng buổi chiều lôi cuốn. Hoặc trong bài Hạ nhật mạn thành, nhà thơ viết ở hai câu thực Song tiền hoàng quyển công môi thuỵ, Hộ ngoại thanh sơn cố sách ngâm. Trước cửa sổ, quyển sách vàng khéo làm mồi ngủ, Ngoài cửa ngăn, núi xanh vẫn giục giã ngâm thơ. Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh và đề cao tác dụng của văn nghệ Trong bài Chu trung ngẫu thành, bài 2 có câu “Ngư ca tam xướng, yên hồ khoát /Mục địch nhất thanh, thiên nguyệt cao”. Một làn điệu dân ca, một khúc dân nhạc đã tác động đến thiên nhiên, hay thi nhân tưởng tượng, cảm giác như thế khi lắng nghe câu hát của ông chài, tiếng sáo của người chăn trâu? Làn điệu dân ca toả ra trên mặt nước, lan dần ra vô biên mà tác giả cảm nhận như mặt hồ rộng thêm; Tiếng sáo vút lên trên bầu trời đêm trăng mà thi nhân ngỡ là trăng như cao thêm trên bầu trời lồng lộng. Câu thơ sau Khách lạ đến ngàn, hoa chửa rụng; Câu thần ngâm dạ, nguyệt càng cao Thuật hứng, bài 7 cũng có ý tương tự như trên. Đây là một quan niệm rất chính xác và sâu sắc về tác dụng của văn nghệ, trong đó có thơ văn, mà qua thực tiễn cuộc sống, thực tế chiến đấu và thực tiễn sáng tác vô cùng đa dạng, phong phú của chính Nguyễn Trãi, nên nhà thơ đã nhận chân được ý nghĩa, tác dụng của văn nghệ đối với đời sống của dân tộc, của nhân dân, và đối với tâm hồn con người. 3. Lời kết Tóm lại, qua những gì trình bày ở trên, có thể khẳng định Nguyễn Trãi không chỉ là nhà thơ nhà văn vĩ đại của văn học Việt Nam – người khai sáng nền thơ ca cổ điển Việt Nam mà còn là nhà lý luận văn nghệ kiệt xuất với một quan niệm văn học đúng đắn và tiến bộ mang bản sắc Việt Nam. Tư tưởng lý luận văn nghệ của Nguyễn Trãi đến nay vẫn còn nguyên giá trị, trong đó có một số quan niệm, tư tưởng rất gần gũi với tư tưởng lý luận văn học hiện đại. CHÚ THÍCH 1 Nguyễn Trãi, Dư địa chí, in trong bộ Ức Trai di tập, Quyển VI, tờ 33a. 2 Tập thơ chữ Hán của Ức Trai có 107 bài. Xin xem Nguyễn Công Lý, Thêm hai bài thơ chữ Hán của Ức Trai tiên sinh, Tạp chí Hán Nôm, số 5-2011. 3 Theo thống kê của GS. Đinh Gia Khánh thì danh từ “dân” được Nguyễn Trãi dùng trong thơ văn đến 155 lần. 4 Đại Việt sử ký toàn thư bản kỷ thực lục, quyển XI, tờ 35 a, 35 b – Bản dịch của Viện Sử học, tập 3, NXB Khoa học Xã hội, 1972, trang 113; và Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 17, tờ 3 a. 5 Sđd, bản dịch, trang 113. 6 Dưới triều nhà Hồ, Nguyễn Ứng Long đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh và ra làm quan, được nhà Hồ bổ nhiệm chức Hàn lâm viện Học sĩ chức quan đứng đầu Viện Hàn lâm đời Hồ kiêm Tế tửu Quốc tử giám chức học quan đứng đầu trường đại học ở kinh đô; Nguyễn Trãi được bổ chức Ngự sử đài chánh chưởng chức quan phụ trách giữ ấn triện của Ngự sử đài, có thể tương đương với Chánh văn phòng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hiện nay. 7 Như trường hợp Bùi Dương Lịch chẳng hạn, ông làm quan ở ba triều đại Lê trung hưng, Tây Sơn, Nguyễn. Vì thế người đương thời triều Nguyễn có thơ chế giễu Cảnh Hưng cử Tiến sĩ/ Tây nguỵ nhập Hàn lâm/ Bản triều vi Đốc học/ Dữ thế cộng phù trầm. 景興舉進士,西偽入 翰林,本朝為督學, 與世共浮沉. Đời Cảnh Hưng được đỗ Tiến sĩ/ Triều Tây Sơn làm ở viện Hàn lâm/ Đến triều ta triều Nguyễn làm Đốc học/ Ông ta thật đúng là chìm nổi với cuộc đời. Dẫn dụ một trường hợp như thế để thấy sự linh hoạt và uyển chuyển của các nhà Nho Việt Nam trong việc tiếp nhận và vận dụng chữ “Trung”. Nguồn Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một, Số 4 29-2016 Thánh Địa Việt Nam Học Giới thiệu tiểu sử và sự nghiệp của nhà thơ Nguyễn Trãi, con đường hoạt động cách mạng, quan điểm sáng tác và những tác phẩm tiêu biểu của viết này được đăng tại không được copy dưới mọi hình thức. Nguyễn Trãi là một trong những Danh nhân văn hóa thế giới được rất nhiều người biết đến và nể phục, ngoài là một nhà thơ nhà văn lỗi lạc, ông còn là nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao thiên tài đã có rất nhiều đóng góp to lớn cho dân tộc. 1. Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai sinh năm 1380 và mất năm 1442, quê gốc ở Hải Dương. Ông sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống yêu nước, yêu văn học. Cha là Nguyễn Phi Khanh – một học trò nghèo chăm chỉ, học giỏi và đỗ đạt tiến sĩ còn mẹ là Trần Thị Thái – con gái của một gia đình quý tộc. Thuở nhỏ Nguyễn Trãi sống với mẹ và ông ngoại, năm lên 6 tuổi thì mẹ mất, ông được ông ngoại trực tiếp dạy dỗ và rèn luyện. Bốn năm sau ông ngoại ông cũng qua đời 1390, lúc này ông được cha đón về làng Nhị Khê ngày nay là thủ đô Hà Nội để sinh sống và học tập. Nhờ thừa hưởng tấm lòng vì dân vì nước từ cha và ông ngoại nên ngay từ nhỏ Nguyễn Trãi đã ý thức được lòng yêu nước thương viết này được đăng tại [free tuts .net] Năm 1400, ông đỗ Thái học sinh ngày nay gọi là tiến sĩ, lúc bấy giờ cả hai cha con ông đều được triều đình trọng dụng và cho làm quan cho nhà Hồ. Năm 1407, nước ta bị giặc Minh sang xâm lấn, cha ông bị bắt đem về Trung Quốc. Ông cũng bị giặc Minh bắt giữ nhưng đã tìm cách trốn thoát, từ đây ông bắt đầu tìm đường đánh giặc cứu nước. Sau một thời gian tìm hiểu ông đã ngộ ra được một lý tưởng đó là muốn cứu nước phải dựa vào dân. Ông cùng với Lê Lợi bàn mưu, tính kế chống giặc và góp công rất lớn vào sự chiến thắng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau khi quét sạch quân thù ông tiếp tục bắt tay vào xây dựng đất nước với mong muốn đất nước sẽ thái bình thịnh trị. Ông cũng chính là người góp phần xây dựng nên lịch sử vẻ vang của triều Hậu Lê. Vào năm 1442, sau khi vào thăm Nguyễn Trãi trên đường về nhà vua băng hà đột ngột băng hà ở Lệ Chi Viên, bọn gian tà ở triều đình vu khống cho ông âm mưu giết vua và buộc ông phải nhận án tru di tam tộc. Đây là vụ án bi thảm nhất trong thời kỳ phong kiến lúc bấy giờ. Mãi đến năm 1464, ông mới được Lê Thánh Tông minh oan và giải được nỗi oan ức này. 2. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi Ngoài là một anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn sáng tác rất nhiều tác phẩm có giá trị cho kho tàng văn học Việt Nam. Thơ văn của ông thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân và tình yêu đối với thiên nhiên. Một số tác phẩm về quân sự và chính trị nổi tiếng, mang lại rất nhiều bài học ý nghĩa đó là “Quân trung từ mệnh tập”, “Chiếu biểu viết dưới triều Lê” và đặc biệt là áng thiên cổ hùng văn "Bình ngô đại cáo "- được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ 2 của nước ta, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc. Ông còn sáng tác rất nhiều tác phẩm về các chủ đề khác nhau như về lịch sử thì có "Lam Sơn thực lục", về địa lý thì có "Dư địa chí", về văn học thì có 2 tập thơ trữ tình rất xuất sắc là " Ức trai thi tập” và “Quốc Âm thi tập". Hầu hết các tác phẩm của ông đều được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Thơ trữ tình của ông chân thực, giản dị, mang hơi thở cuộc sống và rất gần gũi với thực tế, qua đó khắc họa được hình tượng người anh hùng vĩ đại, yêu nước thương dân. Suốt cả cuộc đời Nguyễn Trãi đã luôn cống hiến cho sự phát triển của văn học và chính trị của dân tộc. Cuộc đời của ông nhiều đau thương, bị thảm nhưng đã để lại tiếng thơm muôn đời và sự kính phục, ngưỡng mộ của thế hệ sau. Ông xứng đáng là vị anh hùng dân tộc, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của thời đại. Dàn ý và các bài văn mẫu thuyết minh về Nguyễn Trãi được biên soạn chắc giúp bạnNắm được cách làmBổ sung các kiến thức về Nguyễn TrãiBổ sung các từ ngữ hayĐể hoàn thành tốt hơn bài làm văn thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn thông tin cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Cuộc đời của Nguyễn TrãiNguyễn Trãi sinh năm 1380 và mất năm 1442 có hiệu là Ức TraiÔng sinh ra trong bối cảnh nhà Trần suy yếu, bị Hồ Quý Ly cướp Trãi thi đỗ làm quan Ngự sử đài chính chưởng, nhưng không bao lâu sau đó nhà Minh sang xâm lược với danh nghĩa phù Trần diệt Hồ, lật đổ nhà Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Trung QuốcNguyễn Trãi gia nhập khởi nghĩa Lam Sơn, hiến kế đánh giặc cùng ngoại giao với kẻ thùSau khi đánh bại quân Minh, mở ra triều đại Hậu Lê, Nguyễn Trãi làm quan dưới hai thời vuaNăm 1442, Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc vì vụ án Lệ Chi ViênNăm 1464, Nguyễn Trãi được vua Lê Thánh Tông xuống chiếu ân xá2. Sự nghiệp của Nguyễn Sự nghiệp làm quan của Nguyễn Trãi1400 - 1407 Làm quan cho nhà Hồ1407 - 1418* Mười năm phiêu dạt1418 Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn1427 Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành khiển Lại bộ Thượng thư1928 Nguyễn Trãi làm Quan phục hầu1434 Nguyễn Trãi giữ chức Hành khiển1438 Về ở Côn Sơn1439 Lê Thái Tông mời ông ra làm quan1442 Nguyễn Trãi bị giết cùng người thân 3 Sự nghiệp văn chươngNguyễn Trãi để lại cho đời nhiều tác phẩm thi ca, chính luận đặc sắc song có một số tác phẩm bị thiêu hủy sau vụ án Lệ Chi ViênCác tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trãi còn lưu giữỨc Trai Thi TậpQuốc Âm Thi TậpBình Ngô đại cáoQuân trung từ mệnh tậpLam Sơn thực lụccùng các bài chiếu, cáo khác hay bài về địa lý “Dư Địa Chí”,…Tư tưởng chủ đạo trong các thi phẩm, bài chính luận là tư tưởng nhân nghĩa, mệnh trời, tư tưởng nhân dân, sống theo tư tưởng đạo Nho nhưng không gò bó, câu nệ tiểu tiết mà vô cùng khoáng đạt, rộng thuật thơ của Nguyễn Trãi có ngôn từ giản dị, gần gũi, hình ảnh thơ giàu tính ước 1980, Nguyễn Trãi được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hoá thế khảo thêm Tiểu sử Nguyễn Trãi chi tiết hơn tại wikipediaII. Dàn ý thuyết minh về Nguyễn Trãi mẫu1. Mở bàiGiới thiệu tác giả Nguyễn TrãiNguyễn Trãi người anh hùng của dân tộc được cả thế giới biết nhà quân sự nổi tiếng có công sáng lập ra nhà Hậu Lê và cũng là nhà thơ đời ông có nhiều điều uất ức và bi thảm nhưng ông để lại nhiều giá trị văn học cho hậu Thân Cuộc đời và sự nghiệp– Nguyễn Trãi 1380-1442, hiệu Ức Trai, quê gốc ở Hải Dương, sống chủ yếu ở Thường Tín-Hà Nội.– Là con của Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại của quan tư đồ Trần Nguyên Đán – một quý tộc đời Trần.– Hiệu Ức Trai. Quê gốc ở làng Chi Ngại Chí Linh- Hải Dương.Sau rời về Nhị Khê Thường Tín- Hà Tây– Xuất thân; trong một gia đình có truyền thống văn hóa, văn học và yêu nước. Cha Nguyễn Phi Khanh đỗ Tiến sĩ làm quan dưới triều đại nhà Hồ; Mẹ Trần Thị Thái dòng dõi quý tộc, con của Trần Nguyên Đán.– Nguyễn Trãi sớm chịu nhiều mất mát, đau thương.– 1407 ông làm quân sư cho Lê Lợi, sau một thời gian xin về ở ẩn ở Côn Sơn.– 1440, Lê Thánh Tông mời ông ra làm quan. 1442 Vua bị chết đột ngột → bị vu oan và bị khép tội tru di tam tộc.⇒ Cuộc đời của một đại anh hùng dân tộc, một nhân vật lịch sử toàn tài hiếm có. Ở ông có một nhà chính trị, một nhà văn, một nhà thơ tầm cỡ kiệt xuất. Cuộc đời của ông là cuộc đời của một con người chịu oan khiên thảm khốc.– Nguyễn Trãi chính thức trở thành danh nhân văn hóa thế giới vào năm Đóng góp cho văn học– Văn hóa dân tộc đóng góp cho việc xây dựng nền văn hiến nước nhà. Văn hiến bao gồm các tác phẩm có giá trị và người hiền tài Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo Bình Ngô thể hiện Ông nhà văn chính luận xuất sắc. Quốc âm thi tập” là tập thơ nôm sớm nhất, nhiều bài nhất và hay nhất cho đến hiện Những tác phẩm chính - VănTrung Quân Từ Mệnh tậpBình Ngô Đại CáoLam Sơn thực lục- Thơ caThơ chữ Hán giàu chất trữ tình, tả cảnh thiên nhiên, tả di tích lịch sử, tả tâm tình, tả ý chữ Nôm là lời than của một người đau xót vì không thực hiện được lý tưởng của mình, lo lắng vì đời ngày càng rối ren.⇒ Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt Nguyễn Trãi là nhà thơ trữ tình sâu sắc– Thể hiện con người bình thường thống nhất và hòa quyện với con người anh hùng vĩ đại.– Lý tưởng nhân nghĩa kết hợp với lòng thương dân, vì dân trừ bạo.– Ví mình như cây trúc, cây mai, cây tùng, cứng cỏi, thanh cao, trong sáng → những phẩm chất cao quý của người quân tử dành để giúp nước, trợ dân– Nỗi đau con người– Khao khát dân giàu nước mạnh, ấm no, hạnh phúc– Tình yêu thiên nhiên phong Nghệ thuật– Sáng tạo cải biến thể loại+ Thơ lục ngôn 6 tiếng+ Thơ Đường luật thất ngôn chen 1 số câu 6 tiếng.– Sử dụng hình ảnh quen thuộc, dân dã bình thường rất Việt Nam. – Cảm xúc tứ thơ rất tinh Kết bài– Nguyễn Trãi không chỉ suốt đời cống hiến cho sự nghiệp “trí quân trạch dân” mà còn đóng góp rất lớn cho sự phát triển của văn học dân tộc.– Nguyễn Trãi là ngôi sao Khuê ngời sáng trên bầu trời Việt Nam.– Cuộc đời và sự nghiệp của Ức Trai đáng để chúng ta kính phục và trân trọng đến muôn Văn mẫu thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi đặc sắcNhững bài làm mẫu hay nhất được Đọc Tài Liệu sưu tầm và biên soạn giúp các bạn cùng tham khảo1. Thuyết minh về Nguyễn Trãi bài tham khảo số 1Nguyễn Trãi người anh hùng đại tài không chỉ thể hiện tài năng quân sự mà còn yêu nước hết lòng tận trung ái quốc, yêu mến quê hương đất nước. Ông thể hiện trình độ trong quân sự, đồn thời còn là bậc anh hùng. Nguyễn Trãi con người văn võ song toàn của dân tộc song ông trải qua nhiều bất hạnh oan uổng và trở thành thảm kịch trong lịch sử nước Trãi 1380-1442 với hiệu là Ức Trai, quê gốc nằm ở tỉnh Hải Dương. Ông trưởng thành trong gia đình mà cha và mẹ đều nổi Trãi khi còn nhỏ chịu nhiều đau thươn như 5 tuổi mất mẹ, 10 tuổi mất ông ngoại. Năm 1400, khi nhà Hồ tổ chức kỳ thi, ông đỗ Thái học sinh, cha với con đều cùng nhau làm quan nhà 1407, giặc Minh tấn công xâm lược đất nước, nhà Hồ thất thủ, trong khi đó cha là Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi uất ức nhưng không thể làm gì khác đành tham gia nghĩa quân Lam Sơn kháng chiến chống giặc thời gian năm 1428, khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh thành công, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”.Sau một thời gian làm quan, vào năm 1439, triều đình có nhiều biến chuyển khi gian thần lộng hành khắp nơi. Chán nản Nguyễn Trãi xin vua quay về ở 1440, Lê Thái Tông kêu gọi nhân tài nên mời ông ra làm quan và giúp việc nước. Ông nghe lời vua bèn ra sức cứu dân độ thế. Năm 1442, Nguyễn Trãi và vợ của mình dính vào oan án Lệ Chi Viên hãm hại vua, bị kết tội bi thảm tru di tam và gia đình 3 đời bị xử trảm. Lệ Chi Viên vụ án thảm khốc nhất trong lịch sử nước nhà .Mãi đến năm 1464, Lê Thánh Tông chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi được công nhân danh nhân văn hóa thế giới vào năm Trãi có nhiều đóng góp cho văn học nước nhà. Ông sáng tác nhiều tác phẩm chữ Nôm và chữ Hán, văn chính luận, thơ trữ tác phẩm xuất sắc như “Quân trung từ mệnh tập”, “Bình Ngô đại cáo” và nhiều chiếu, biểu, có giá trị khác. Các tác phẩm ông có tư tưởng chính đó là sự nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Hai tập thơ “Ức Trai thi tập” chữ Hán và “Quốc âm thi tập” chữ Nôm nằm trong số các tác phẩm vô cùng giá trữ tình của ông giản dị, giàu hình ảnh có tính ước lệ. Nguyễn Trãi thiên tài văn học nổi tiếng có sự kết tinh của tinh thần Văn học Lí – Trần. Nội dung, thơ Nguyễn Trãi có sự kết hợp giữa lòng yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo sâu Trãi nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông thiên tài quân sự và giàu lòng yêu nước, thương dân. Đúng như vua Lê Thánh Tông truy tặng “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Tên tuổi ông sẽ mãi mãi sáng như ánh sao khuê, niềm tự hào của dân tộc Việt Thuyết minh về Nguyễn Trãi bài tham khảo số 2Nguyễn Trãi 1380-1442 là bậc đại anh hùng dân tộc, là một nhân vật toàn tài hiếm có trong lịch sử nước nhà, là danh nhân văn hóa thế giới nhưng đồng thời cũng là người phải chịu những oan khiên thảm khốc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Trãi xuất thân trong gia đình cha là nhà nho nghèo, mẹ thuộc dòng dõi quí tộc nhà Trần. Nguyễn Trãi sớm mồ côi mẹ, thuở nhỏ được sự nuôi dạy cẩn thận của của ông ngoại Trần Nguyên thi đỗ và làm quan cho nhà Hồ cùng với cha năm 1400. Đến 1407, giặc Minh đến cướp nước ta, cha Nguyễn Trãi bị bắt đưa về Trung Quốc, Nguyễn Trãi theo cha, nhưng đến biên giới, nghe lời cha, Nguyễn Trãi quay lại tìm cách rửa nhục cho bị giặc Minh giam lỏng 10 năm ở thành Đông Quan, sau đó trốn thoát được, tìm vào Lam Sơn phò tá Lê Lợi tiến hành cuộc kháng chiến chống Minh đến toàn thắng năm hăm hở tái thiết xây dựng đất nước nhưng bị gian thần ghen ghét, bị nghi ngờ, không được tin dùng 1439, ông xin về ở ẩn, nhưng đến 1440, vua trẻ Lê Thái Tông lại mời ông ra giúp 1442, nhà vua đi duyệt võ ở Chí Linh, có ghé thăm Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, rồi đột ngột băng hà ở Lệ Chi Viên. Nguyễn Trãi bị gian thần vu cho tội giết vua và bị xử án tru di tam năm 1464, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, tìm con cháu, sưu tầm lại thơ văn của ông và khẳng định nhân cách, tấm lòng, tâm hồn lớn của Nguyễn Trãi với câu nói nổi tiếng “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.Nguyễn Trãi là nhà chính trị, quân sự, giáo dục, nhà lập pháp tài ba của dân tộc ta. Không chỉ vây, ông còn là cây đại thụ đầu tiên của văn học Việt Nam. Ông là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học cả ở lĩnh vực chữ Hán và chữ Nôm . Ông để lại một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó là “Đại cáo bình Ngô”, “Quân trung từ mệnh tập”…Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất của văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo được đánh giá là “thiên cổ hùng văn”, bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc. “Quân trung từ mệnh tập” được đánh giá là “có sức mạnh bằng 10 vạn quân”. Các tác phẩm chính luận có luận điểm vững chắc, lập luận sắc bén, giọng điệu linh hoạt. Trong đó luận điểm cơ bản cốt lõi là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương còn là nhà thơ trữ tình sâu sắc. Thơ ông bộc lộ tâm hồn, con người ông từ khía cạnh bình thường, trần thế hòa quyện với con người anh hùng vĩ đại. Đọc thơ Nguyễn Trãi, ta thấy những nỗi ưu tư trăn trở về dân về nước, thấy được khí tiết thanh cao, lòng yêu thiên nhiên cây cỏ của Trãi có đóng góp lớn vào việc phát triển chữ Nôm và Việt hóa thơ Đường qua việc sử dụng thuần thục thể thơ thất ngôn xen lục ngôn. Nguyễn Trãi đưa vào thơ những hình ảnh dân dã quen thuộc một cách tự nhiên, tinh được đánh giá là thiên tài văn học, là hồn thơ kết tinh tinh hoa văn hóa Lí-Trần, là người mở đường cho cả một giai đoạn mới của thơ viết bằng tiếng Việt. Thơ văn ông hội tụ đủ hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là yêu nước và nhân Thuyết minh về Nguyễn Trãi bài tham khảo số 3Nguyễn Trãi không những được người người khâm phục ở tài năng quân sự mà còn khâm phục ông là một con người tận trung ái quốc, yêu mến quê hương đất nước thiết tha. Văn võ song toàn, cống hiến suốt đời và đóng góp to lớn cho sự nghiệp cứu và dựng nước, đáng là bậc anh hùng nước những chiến lược quân sự tài ba, lời lẽ chau chuốt của một nhà ngoại giao chính trị, lời văn mượt mà tha thiết của một nhà văn hóa, Nguyễn Trãi đáng là một đại văn hào của dân tộc. Song ông cũng chịu nhiều oan khiên thảm khốc dưới thời phong kiến trong lịch sử Việt Trãi hiệu Ức Trai 1380-1442 quê ở Nhị Kê Hà Tây, phụ thân là Nguyễn Phi Khanh, phụ mẫu là Trần Thị Thái con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán – một quý tộc đời Trần. Nguyễn Trãi được sinh ra trong một gia đình có hai truyền thống lớn là yêu nước và văn hóa, văn học, năm 1400 ông đỗ Thái học Trãi sống vào thời đại nước nhà đang có nhiều biến động dữ dội, lên 6 tuổi mẹ qua đời, ông đỗ Thái học sinh vào năm 20 tuổi. Hai cha con cùng ra làm quan với triều nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh tràn sang cướp nước ta, Nguyễn Phi khánh bị bắt sang Trung Trãi khắc sâu lời cha dặn” rửa nhục cho nước, trả thù cho cha”, ông trở về tìm và theo Lê Lợi góp công lớn vào đại thắng dân tộc sau hơn 10 năm chiến khi đất nước sạch bóng quân thù, người dân nhà nhà đoàn tụ, ông bị các gian thần đố kỵ, hãm hại. Vì thế mà ông không được tin cậy và trọng dụng như trước nữa, Nguyễn Trãi đã cáo quan xin về Côn năm 1440 Lê Thái Tông mời ông ra giao việc lớn ,ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ án oan trái Lệ Chi Viên – Bắc Ninh nhà vua chết đột ngột, bọn gian thần vu cho ông tội giết vua và chu vi tam tộc dòng họ của ông 1442 và hơn 20 năm sau 1464 Lê Thánh Tông mới giải tỏa nỗi oan này cho Nguyễn Trãi. Nhà vua cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm lại con cháu của Trãi là một nhà tài năng lỗi lạc, ông không những là một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao mà còn là một đại thi hào của nền văn học Việt Nam ta. Tác phẩm của ông cũng đồng số phận, cuộc đời, gian nan mà ông từng khi ông mất, nhiều tác phẩm từng bị ra lệnh tiêu hủy. Sau 20 năm, Lê Thánh Tông truyền lệnh sưu tầm tác phẩm của ông, nhưng rồi lại bị thất tán. Mãi đến đầu thế kỉ XIX mới tìm lại được và nửa cuối thế kỉ XIX mới được khắc đã để lại cho kho tàng văn học nhiều tác phẩm có giá trị về quân sự và chính trị , Nguyễn Trãi có ” Quân trung từ mệnh tập”-gồm những thư từ và giấy tờ giao thiệp với giặc Minh và triều đình nhà Lê.”Bình ngô đại cáo” là áng “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỉ nguyên mới cho nước nhà …Về lục sử có “Lam Sơn thực lục” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và “Dư địa chí” viết về địa lý nước ta lúc bấy văn học, Nguyễn Trải có “Ức trai thi tập, Quốc Âm thi tập”. “Quốc Âm thi tập” được viết bằng chữ nôm, đánh dấu sự hình thành của nền thơ ca Tiếng là người đứng đầu trong sự nghiệp khởi nghĩa dòng thơ Nôm trong hàng nghìn, vạn văn chương chữ Hán dày đặc đương ra thơ văn của ông còn thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên , nổi bật trong thơ văn Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước , thương dân. Yêu nước gắn với thương dân, việc nhân nghĩa nhằm làm cho nhân dân được sống yên ổn – đó là tư tưởng chủ đạo suốt đời của Nguyễn Nguyễn Trãi thể hiện những triết lí thế sự sâu sắc mà giản dị ,những trải nghiệm đau đớn về cuộc đời. Trong thơ của ông còn tràn đầy tình yêu thiên nhiên , đối với ông thiên nhiên là bầu bạn , là gia đình ruột văn Nguyễn Trãi là đỉnh cao chói lọi trong nền văn học dân tộc , ông là nhà văn có nhiều cống hiến to lớn cho văn học đất nước, cùngvới các bài chiếu , biểu , lục , ông đã xây đắp nền móng văn hóa tư tưởng cho dân chữ Hán của Nguyễn Trãi là một thế giới thẩm mĩ phong phú , vừa trữ tình , trí tuệ, vừa hào hùng , lãng mạn . Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người tiên phong , để lại tập thơ xưa nhất và nhiều bài nhất .Đó là những bài thơ giàu trì tuệ , sâu sắc , thấm dẫm trải nghiệm về cuộc đời , được việt bằng ngôn ngữ tinh luyện trong sáng , đăng đối một cách cổ Trãi là nhà thơ đã sớm đưa tục ngữ vào tác phẩm , ông cũng là người đã sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một hình thức khác với Đường thể nói Nguyễn Trãi là một nhân vật tài đức có đủ , trí dũng song toàn trong lịch sự Việt Nam thời phong Trãi là danh nhân văn hóa lỗi lạc và cũng là người có số phận bi thương nhất trong lịch sử Việt Nan. Ông chẳng những góp phần viết nên các trang hào hùng trong lịch sử giữ nước mà còn góp phần xây đắp nền móng vững chãi cho văn học dân Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân , gắn bó thiết tha với cảnh vật thiên nhiên đất nước, thể hiện tình yêu ngôn từ Việt nồng thêm tuyển chọn các bài văn mẫu thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi khác của Đọc Tài Liệu sưu tầm và biên soạnChúc hoàn thành tốt bài làm văn và đạt điểm cao…!

bình luận về nguyễn trãi